TUỆ SỸ: CHÉN TRÀ LÃO TRIỆU MÀ CHƯNG HOA NGÀN
Đỗ
Hồng Ngọc
Thị
giả của Thầy Tuệ Sỹ nhắn tin tôi: Thầy Tuệ Sỹ đang ở Sài Gòn. Mời Bác đến Hương
Tích chơi. Tôi đến. Tuệ Sỹ gầy ốm, xanh xao lắm. Nhưng vui vẻ, hoạt bát, thông
tuệ như bao giờ!
Thầy
viết tặng tôi tập Thơ song ngữ: Dreaming the Mountain do Nguyễn Bá Chung
và Martha Collins dịch (2023), cùng với cuốn Phạm Công Thiện của Nohira
Munehiro (Võ Thị Vân Anh dịch) và Phật Học Luận Tập, số mới nhất.
Phần
tôi, gởi tặng Thầy bản thảo “Một ngày kia… đến bờ” vừa mới viết xong.
Trong đó tôi viết: Phật cũng già, cũng bệnh và… cũng chết; viết về Phật là Như
Lai nhưng… Như Lai không phải Phật; về Thiền và những hormones hạnh phúc; về
“Chất lượng cuộc chết” v.v…
Thầy
đưa tôi coi mấy phiếu xét nghiệm và cười, nói: “Chỉ còn một nửa”. Đúng. Chỉ còn
một nửa. Hématocrite chỉ còn 17%, Hémoglobine còn 7g/dL…
Mấy
ngày sau tôi nghe sức khoẻ thầy đang rất yếu. Đã phải vào bệnh viện và được
truyền 3 đơn vị hồng cầu lắng.
Trong
bản thảo “Một ngày kia… đến bờ”, tôi có nhắc Je pense donc je suis của
Descartes: Tôi tư duy, vậy có tôi. Vậy không tư duy là không… có tôi! Ta cũng
có thể nói như một thầy thuốc: “Tôi thở, vậy có tôi”. Nghĩa là tôi không thở
thì không có tôi. Nhưng cái thời tôi còn ở trong bụng mẹ, tôi cũng không thở mà
vẫn có tôi đó thôi. Vậy phải chăng cái thời tôi… hết thở, tôi ngừng thở, thì
tôi không còn nữa? Còn chứ! Tôi lúc đó lại trở về bào thai Mẹ, bào thai Như Lai
(Tathagata-garbha) đó chứ!
Tuệ
Sỹ viết trong Tổng quan về Nghiệp (2021), Thời kinh nói: “Thời gian đến,
chúng sinh chín muồi; thời gian đi, chúng sinh bị hối thúc. Thời gian thức tỉnh
chúng sinh…” Đây là tri giác về thời gian theo chu kỳ sống chết của sinh loại.
Tri giác về thời gian cũng là tri giác về sự chết. Thời gian được biết đến từ
tri giác về sự sinh thành và hủy diệt của một đời người.
Rồi
khép lại hàng mi về cõi mộng
Như
sương mai, như bóng chớp, mây chiều.
Thì
ra là lời của kinh Kim Cang đó:
Nhất
thiết hữu vi pháp
Như
mộng, huyễn, bào, ảnh
Như
lộ diệc như điện.
Ưng
tác như thị quán!
Thành
ngữ kālaṃ karoti, “nó tạo tác thời gian”, nghĩa là nó chết. Đây không
phải là tri giác mà là ám ảnh về thời gian như một thứ định mệnh không thể
tránh, rồi ai cũng phải chết. Cho nên, về mặt ngữ nguyên, kāla, nghĩa là
thời gian mà cũng có nghĩa là màu đen tối, màu của đêm tối, của sự chết. Kāla
cũng được hiểu là do gốc động từ kal (kalayati) thúc giục, hối thúc, sự
chết đang hối thúc ta (Tổng quan về Nghiệp,Tuệ Sỹ).
Lửa
đã tắt từ buổi đầu sáng thế
Một
kiếp người ray rứt bụi tro bay
(Ngồi
giữa bãi tha ma)
Trong
bài “Phương nào cõi tịnh”, Tuệ Sỹ viết từ cảm hứng khi đọc cuốn “Cõi
Phật Đâu Xa” của tôi về Kinh Duy Ma Cật (2017), ông dẫn 4 câu thơ, trích từ Giấc
Mơ Trường Sơn:
Ta
hỏi kiến nơi nào Cõi Tịnh,
Ngoài
hư không có dấu chim bay?
Từ
tiếng gọi màu đen đất khổ,
Thắp
tâm tư thay ánh mặt trời.
(Giấc
Mơ Trường Sơn)
Phải,
chỉ có Trí Tuệ (thắp tâm tư thay ánh mặt trời) mới có thể Từ Bi giúp ta vượt
thoát màu đen đất khổ đó vậy!
Tuệ
Sỹ cho rằng, “vì trình độ ngôn ngữ và năng lực tư duy của chúng ta vốn hữu hạn,
cho nên bằng con đường nghệ thuật mà đi vào ngõ đạo có thể tương đối dễ hơn”
(Phương nào cõi tịnh), ông chủ trương thơ, nhạc, vũ, kịch… có thể là “ngõ đạo”.
Ông
thường nói về vở nhạc vũ kịch Duy Ma Cật, ở đó có hình tượng một Thiên nữ rải
hoa trời tán thưởng một lời không nói (của Duy Ma…) và cõi của một lời không
nói đó chính là cõi thơ.
Giữa
thế giới Ta-bà và cõi Phật Chúng Hương, tòa sư tử và thành Tì-la-da, cái vô
cùng lớn đến trong cái vô cùng nhỏ, và cái nhỏ đi vào trong cái lớn: đây cũng
là cặp phản diện bối cảnh làm lộ rõ thể tính tồn tại của thế gian, vũ trụ. Bằng
hình ảnh đó mà tập luyện cho tư duy vượt ngoài khuôn sáo ước lệ, vượt qua thế
giới thường nghiệm để vươn lên cảnh giới siêu nghiệm, bất khả tư nghị.
Như
thế, đọc Duy-ma-cật sở thuyết như đang xem một kịch bản, với những nhân vật và
bối cảnh phản diện, với những biến cố mang đầy kịch tính, đó là cách tự huấn
luyện và tự trang bị cho mình một công cụ định hướng tư duy để vươn lên chiều
cao của giác ngộ.
Da
mồi tóc trắng, chính là cảnh giới của Duy Ma. Cảnh giới đó là cõi đối biện
thượng thừa; cõi im lặng vô ngôn bát ngát của cư sĩ Duy Ma Cật. Và cũng là cõi
tịch mặc nhưng tráng lệ của thi ca.
Cười
với nắng một ngày sao chóng thế
Nay
mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Đếm
tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi
đường dài gót mỏi đi quanh
(Khung
trời cũ)
Tâm
Thiền thì không có ngôn ngữ gì khác biệt với ngôn ngữ thường tình. Nhưng còn
ngại rằng khi đã cạo tóc mà tình thơ vẫn còn. Thôi thì, thiền đạo và thi ca là
đồng hay là khác, cũng chớ nên nghi ngờ mà tra hỏi.
Có
lẽ “Những phím dương cầm” là bài thơ rất tình của ông tay em run trên những
phím lụa ngà, anh trĩu nặng núi rừng trong đáy mắt, nhưng ông đã dặn “chớ nên
nghi ngờ mà tra hỏi” rồi đó!
Tự
hôm nào suối tóc ngọt lời ca
Tay
em run trên những phím lụa ngà
Lời
em ca phong kín nhụy hoa hờn
Anh
trĩu nặng núi rừng trong đáy mắt
Mờ
phố thị những chiều hôn mái tóc
Sóng
ai ngồi so phím lụa đàn xưa
(Những
phím dương cầm)
Bởi
theo ông, đạt tới cõi thượng thừa của Thơ, như người học Thiền chứng chỗ Không
tịch của Đạo; cái đó vừa khó vừa dễ. Học Thiền ba mươi năm, ba mươi năm đày đọa
thân tâm, mà không thành. Phẫn chí, bỏ đi; bất chợt thấy một cánh hoa rơi, cõi
Không tịch cũng hoát nhiên, đột ngột mở ra. Chỗ ảo diệu đó, khó giảng cho
thông! Muốn cho lời thơ tuyệt diệu, thì phải là đừng gò ép, vừa Không và vừa
Tĩnh. Tĩnh cho nên thâu tóm hết mọi vọng động. Không cho nên bao hàm vạn cảnh.
Ngắm nhìn sự đời, bôn ba giữa đời, mà thấy mình như nằm trên chóp đỉnh mây cao.
Đủ hết các thứ mặn nồng, chua chát; trong đó có cái hương vị tuyệt vời. Thơ và
Pháp (Đạo) không chống trái nhau, không hại nhau. (Tô Đông Pha, những khung
trời viễn mộng, Tuệ Sỹ)
Đọc
thơ Tuệ Sỹ, tôi thường ngẫm ngợi tại sao thơ ông thường nhắc đến ngày hội lớn,
cung trời hội cũ?
Đôi
mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ
Áo
màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
(Khung
trời cũ).
Người
mắt biếc ngây thơ ngày hội lớn
Khóe
môi cười nắng quái cũng gầy hao
(Một
thoáng chiêm bao)
Ngày
hội lớn đó ở đâu? Cung trời hội cũ ở chỗ nào đó vậy? Sao nghe thấy quen quen!
A,
có phải buổi hôm đó, dưới cội Bồ đề nơi Đức Phật thành đạo, Ngài nói đó là “quả
an vui”, ở Hội thứ nhất của Avatamsaka, một thế giới hoa tạng mở ra bát ngát,
Như Lai đã hiện tướng thành một vị Phật mắc biếc, ngây thơ, tủm tỉm cười… như
hồi còn là chú bé 7, 8 tuổi ngồi xem Lễ Hạ Điền mà nhập định không hay?
Còn
cung trời hội cũ kia phải chăng là Hội thứ chín, nơi rừng Thệ Đa, khi người ta
nhập pháp giới, đi vào cuộc Lữ, để thấy được pháp giới thể tính mà thõng tay
vào chợ?
Từ
núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh
đá này và hạt muối đó chưa tan
Trên
đỉnh Hy-mã-lạp- sơn kia là những vỏ sò và dưới đáy biển sâu thẳm nọ là những
hạt muối lâu đài thành quách…
Cõi
thơ, có đến và có đi, nhưng không hề có dấu vết. Một cánh chim Nhạn, một cánh
chim Hồng ngoài ven trời vạn dặm.
Tôi
vẫn nghĩ, chính cõi thơ “không hề có dấu vết” kia đã “cứu rỗi” Tuệ Sỹ, một cánh
chim Nhạn, một cánh chim Hồng ngoài ven trời vạn dặm, để ông được trở về với
mái nhà tranh quen thuộc của mình mà “nâng chén trà lão Triệu”. (Phương nào cõi
tịnh, Tuệ Sỹ).
ĐỖ
HỒNG NGỌC
Saigon,
tháng 9.2023
Hồng Ngọc
Thầy Tuệ Sỹ
Đỗ Hồng Ngọc và Thầy Tuệ
Sỹ
Sỹ
Thị
giả của Thầy Tuệ Sỹ nhắn tin tôi: Thầy Tuệ Sỹ đang ở Sài Gòn. Mời Bác đến Hương
Tích chơi. Tôi đến. Tuệ Sỹ gầy ốm, xanh xao lắm. Nhưng vui vẻ, hoạt bát, thông
tuệ như bao giờ!
Thầy
viết tặng tôi tập Thơ song ngữ: Dreaming the Mountain do Nguyễn Bá Chung
và Martha Collins dịch (2023), cùng với cuốn Phạm Công Thiện của Nohira
Munehiro (Võ Thị Vân Anh dịch) và Phật Học Luận Tập, số mới nhất.
Phần
tôi, gởi tặng Thầy bản thảo “Một ngày kia… đến bờ” vừa mới viết xong.
Trong đó tôi viết: Phật cũng già, cũng bệnh và… cũng chết; viết về Phật là Như
Lai nhưng… Như Lai không phải Phật; về Thiền và những hormones hạnh phúc; về
“Chất lượng cuộc chết” v.v…
Thầy
đưa tôi coi mấy phiếu xét nghiệm và cười, nói: “Chỉ còn một nửa”. Đúng. Chỉ còn
một nửa. Hématocrite chỉ còn 17%, Hémoglobine còn 7g/dL…
Mấy
ngày sau tôi nghe sức khoẻ thầy đang rất yếu. Đã phải vào bệnh viện và được
truyền 3 đơn vị hồng cầu lắng.
Trong
bản thảo “Một ngày kia… đến bờ”, tôi có nhắc Je pense donc je suis của
Descartes: Tôi tư duy, vậy có tôi. Vậy không tư duy là không… có tôi! Ta cũng
có thể nói như một thầy thuốc: “Tôi thở, vậy có tôi”. Nghĩa là tôi không thở
thì không có tôi. Nhưng cái thời tôi còn ở trong bụng mẹ, tôi cũng không thở mà
vẫn có tôi đó thôi. Vậy phải chăng cái thời tôi… hết thở, tôi ngừng thở, thì
tôi không còn nữa? Còn chứ! Tôi lúc đó lại trở về bào thai Mẹ, bào thai Như Lai
(Tathagata-garbha) đó chứ!
Tuệ
Sỹ viết trong Tổng quan về Nghiệp (2021), Thời kinh nói: “Thời gian đến,
chúng sinh chín muồi; thời gian đi, chúng sinh bị hối thúc. Thời gian thức tỉnh
chúng sinh…” Đây là tri giác về thời gian theo chu kỳ sống chết của sinh loại.
Tri giác về thời gian cũng là tri giác về sự chết. Thời gian được biết đến từ
tri giác về sự sinh thành và hủy diệt của một đời người.
Rồi
khép lại hàng mi về cõi mộng
Như
sương mai, như bóng chớp, mây chiều.
Thì
ra là lời của kinh Kim Cang đó:
Nhất
thiết hữu vi pháp
Như
mộng, huyễn, bào, ảnh
Như
lộ diệc như điện.
Ưng
tác như thị quán!
Thành
ngữ kālaṃ karoti, “nó tạo tác thời gian”, nghĩa là nó chết. Đây không
phải là tri giác mà là ám ảnh về thời gian như một thứ định mệnh không thể
tránh, rồi ai cũng phải chết. Cho nên, về mặt ngữ nguyên, kāla, nghĩa là
thời gian mà cũng có nghĩa là màu đen tối, màu của đêm tối, của sự chết. Kāla
cũng được hiểu là do gốc động từ kal (kalayati) thúc giục, hối thúc, sự
chết đang hối thúc ta (Tổng quan về Nghiệp,Tuệ Sỹ).
Lửa
đã tắt từ buổi đầu sáng thế
Một
kiếp người ray rứt bụi tro bay
(Ngồi
giữa bãi tha ma)
Trong
bài “Phương nào cõi tịnh”, Tuệ Sỹ viết từ cảm hứng khi đọc cuốn “Cõi
Phật Đâu Xa” của tôi về Kinh Duy Ma Cật (2017), ông dẫn 4 câu thơ, trích từ Giấc
Mơ Trường Sơn:
Ta
hỏi kiến nơi nào Cõi Tịnh,
Ngoài
hư không có dấu chim bay?
Từ
tiếng gọi màu đen đất khổ,
Thắp
tâm tư thay ánh mặt trời.
(Giấc
Mơ Trường Sơn)
Phải,
chỉ có Trí Tuệ (thắp tâm tư thay ánh mặt trời) mới có thể Từ Bi giúp ta vượt
thoát màu đen đất khổ đó vậy!
Tuệ
Sỹ cho rằng, “vì trình độ ngôn ngữ và năng lực tư duy của chúng ta vốn hữu hạn,
cho nên bằng con đường nghệ thuật mà đi vào ngõ đạo có thể tương đối dễ hơn”
(Phương nào cõi tịnh), ông chủ trương thơ, nhạc, vũ, kịch… có thể là “ngõ đạo”.
Ông
thường nói về vở nhạc vũ kịch Duy Ma Cật, ở đó có hình tượng một Thiên nữ rải
hoa trời tán thưởng một lời không nói (của Duy Ma…) và cõi của một lời không
nói đó chính là cõi thơ.
Giữa
thế giới Ta-bà và cõi Phật Chúng Hương, tòa sư tử và thành Tì-la-da, cái vô
cùng lớn đến trong cái vô cùng nhỏ, và cái nhỏ đi vào trong cái lớn: đây cũng
là cặp phản diện bối cảnh làm lộ rõ thể tính tồn tại của thế gian, vũ trụ. Bằng
hình ảnh đó mà tập luyện cho tư duy vượt ngoài khuôn sáo ước lệ, vượt qua thế
giới thường nghiệm để vươn lên cảnh giới siêu nghiệm, bất khả tư nghị.
Như
thế, đọc Duy-ma-cật sở thuyết như đang xem một kịch bản, với những nhân vật và
bối cảnh phản diện, với những biến cố mang đầy kịch tính, đó là cách tự huấn
luyện và tự trang bị cho mình một công cụ định hướng tư duy để vươn lên chiều
cao của giác ngộ.
Da
mồi tóc trắng, chính là cảnh giới của Duy Ma. Cảnh giới đó là cõi đối biện
thượng thừa; cõi im lặng vô ngôn bát ngát của cư sĩ Duy Ma Cật. Và cũng là cõi
tịch mặc nhưng tráng lệ của thi ca.
Cười
với nắng một ngày sao chóng thế
Nay
mùa đông mai mùa hạ buồn chăng
Đếm
tóc bạc tuổi đời chưa đủ
Bụi
đường dài gót mỏi đi quanh
(Khung
trời cũ)
Tâm
Thiền thì không có ngôn ngữ gì khác biệt với ngôn ngữ thường tình. Nhưng còn
ngại rằng khi đã cạo tóc mà tình thơ vẫn còn. Thôi thì, thiền đạo và thi ca là
đồng hay là khác, cũng chớ nên nghi ngờ mà tra hỏi.
Có
lẽ “Những phím dương cầm” là bài thơ rất tình của ông tay em run trên những
phím lụa ngà, anh trĩu nặng núi rừng trong đáy mắt, nhưng ông đã dặn “chớ nên
nghi ngờ mà tra hỏi” rồi đó!
Tự
hôm nào suối tóc ngọt lời ca
Tay
em run trên những phím lụa ngà
Lời
em ca phong kín nhụy hoa hờn
Anh
trĩu nặng núi rừng trong đáy mắt
Mờ
phố thị những chiều hôn mái tóc
Sóng
ai ngồi so phím lụa đàn xưa
(Những
phím dương cầm)
Bởi
theo ông, đạt tới cõi thượng thừa của Thơ, như người học Thiền chứng chỗ Không
tịch của Đạo; cái đó vừa khó vừa dễ. Học Thiền ba mươi năm, ba mươi năm đày đọa
thân tâm, mà không thành. Phẫn chí, bỏ đi; bất chợt thấy một cánh hoa rơi, cõi
Không tịch cũng hoát nhiên, đột ngột mở ra. Chỗ ảo diệu đó, khó giảng cho
thông! Muốn cho lời thơ tuyệt diệu, thì phải là đừng gò ép, vừa Không và vừa
Tĩnh. Tĩnh cho nên thâu tóm hết mọi vọng động. Không cho nên bao hàm vạn cảnh.
Ngắm nhìn sự đời, bôn ba giữa đời, mà thấy mình như nằm trên chóp đỉnh mây cao.
Đủ hết các thứ mặn nồng, chua chát; trong đó có cái hương vị tuyệt vời. Thơ và
Pháp (Đạo) không chống trái nhau, không hại nhau. (Tô Đông Pha, những khung
trời viễn mộng, Tuệ Sỹ)
Đọc
thơ Tuệ Sỹ, tôi thường ngẫm ngợi tại sao thơ ông thường nhắc đến ngày hội lớn,
cung trời hội cũ?
Đôi
mắt ướt tuổi vàng cung trời hội cũ
Áo
màu xanh không xanh mãi trên đồi hoang
(Khung
trời cũ).
Người
mắt biếc ngây thơ ngày hội lớn
Khóe
môi cười nắng quái cũng gầy hao
(Một
thoáng chiêm bao)
Ngày
hội lớn đó ở đâu? Cung trời hội cũ ở chỗ nào đó vậy? Sao nghe thấy quen quen!
A,
có phải buổi hôm đó, dưới cội Bồ đề nơi Đức Phật thành đạo, Ngài nói đó là “quả
an vui”, ở Hội thứ nhất của Avatamsaka, một thế giới hoa tạng mở ra bát ngát,
Như Lai đã hiện tướng thành một vị Phật mắc biếc, ngây thơ, tủm tỉm cười… như
hồi còn là chú bé 7, 8 tuổi ngồi xem Lễ Hạ Điền mà nhập định không hay?
Còn
cung trời hội cũ kia phải chăng là Hội thứ chín, nơi rừng Thệ Đa, khi người ta
nhập pháp giới, đi vào cuộc Lữ, để thấy được pháp giới thể tính mà thõng tay
vào chợ?
Từ
núi lạnh đến biển im muôn thuở
Đỉnh
đá này và hạt muối đó chưa tan
Trên
đỉnh Hy-mã-lạp- sơn kia là những vỏ sò và dưới đáy biển sâu thẳm nọ là những
hạt muối lâu đài thành quách…
Cõi
thơ, có đến và có đi, nhưng không hề có dấu vết. Một cánh chim Nhạn, một cánh
chim Hồng ngoài ven trời vạn dặm.
Tôi
vẫn nghĩ, chính cõi thơ “không hề có dấu vết” kia đã “cứu rỗi” Tuệ Sỹ, một cánh
chim Nhạn, một cánh chim Hồng ngoài ven trời vạn dặm, để ông được trở về với
mái nhà tranh quen thuộc của mình mà “nâng chén trà lão Triệu”. (Phương nào cõi
tịnh, Tuệ Sỹ).
ĐỖ
HỒNG NGỌC
Saigon,
tháng 9.2023


Nhận xét
Đăng nhận xét