KÝ ỨC CỦA LOÀI BÒ SÁT. PHÂN ĐOẠN 16-17

Trịnh
Y Thư
 
Bản vẽ Duy Thanh
[1931-2019
].
 
16.
Về
lại buôn bản sau trận công đồn, ngay chiều hôm sau, tôi ra suối chờ Xụ Phụn
Phèn. Tôi biết hằng ngày cô ra nương ngô, lúc về, ra suối tắm rồi mới về nhà.
Cô và các bạn của cô. Nơi các cô tắm là một duềnh nước trong vắt. Con suối đổ từ
cao xuống đến đây biến thành cái vụng to, cây cỏ um tùm xung quanh che rợp,
nhưng tôi biết một chỗ kín đáo rình xem các cô tắm (kinh nghiệm từ ngày theo
đám nhãi ranh làng Thụy Khuê xem trộm cô con gái cụ Chánh Phùng Gia Tuyên).
Nhưng từ ngày cô và tôi trở thành tình nhân, cô cấm tuyệt tôi không được làm
cái trò khỉ ấy nữa. Cô hẹn tôi ở một nơi khác, mãi tận khúc suối trên nguồn
cách xa cả cây số, vắng vẻ. Tắm xong, cô về nhà làm cơm bỏ vào ống tre đem ra
cho tôi và cô cùng ăn. Tại đây có một cái lán xiêu vẹo bỏ không, tôi sửa sang,
dọn dẹp thành căn lều lý tưởng cho hai chúng tôi yêu nhau.
    Tôi ngồi chờ một lát thì cô đến. Cô mừng đến
chảy nước mắt khi thấy tôi trở về nguyên vẹn. Tôi bảo cô tôi có phải đánh đấm
gì đâu mà chẳng nguyên vẹn, tôi chỉ là anh dân quân đi theo dọn dẹp chiến trường,
nhưng cô có vẻ khâm phục tôi lắm. Tôi lục ba-lô lấy ra hai món vật đưa cho cô,
một chiếc đồng hồ dạ quang và chiếc xuyến vàng lóng lánh:
    “Kử nhặt được ở đồn Pháp. Đồng hồ cho phỉ,
còn cái xuyến cho kõ.”
    Cô trố mắt nhìn hai món vật. Đó là cả một
gia tài đối với cô, tôi nhặt được trong lúc đi lục soát cái đồn Tây, và mặc dù
anh Mẫn luôn mồm gọi tôi là thằng mán rừng, nhưng tôi đủ khôn ngoan giấu hai
món vật trong ba-lô đem về làm quà cho Phèn. Cô cảm động nhìn tôi âu yếm rồi cởi
áo, cầm tay tôi đặt lên ngực mình. Vú cô bé lắm, chỉ nhỉnh hơn quả cau một
chút, nhưng đầu vú to, màu hồng. Tôi thích nghịch vú cô. Cô biết thế. Tôi đưa
môi hôn cô, tay mân mê đầu vú xinh xắn, ngọt ngào.
 
17.
Tiểu
đoàn của ông Lê Lân đang dưỡng quân và chờ bổ sung quân số. Sau trận công đồn,
mặc dù triệt hạ được đồn theo lệnh cấp trên, giết sạch bốn năm chục lính và sĩ
quan đóng trong đồn, nhưng tiểu đoàn ông bị thiệt hại nặng. Gần hai trăm bộ đội
chết và bị thương. Không thấy anh Sơn về buôn bản gặp tôi nói chuyện vãn nữa.
Không hiểu sau cái màn cắt đầu người ấy, anh còn bình tĩnh viết xuống sổ tay trải
nghiệm này để mai sau viết tiểu thuyết không. Tôi được điều sang một đơn vị dân
quân khác lên Lào Kai tiếp thu súng ống, đạn dược của Trung quốc. Lúc này bên
Trung quốc, Mao Trạch Đông đã đánh đuổi xong quân Tưởng Giới Thạch sang đảo Đài
Loan, súng đạn thừa mứa, nên họ viện trợ cho Việt Minh đánh Pháp. Mỗi chuyến đi
như vậy thường mất cả hai, ba tháng trời, mặc dù có quân xa chở vũ khí đạn dược.
Lý do chậm vì xe chỉ dám chạy ban đêm để tránh máy bay Pháp không tập, và không
phải lúc nào cũng ngồi xe. Có những đoạn đường cả đoàn dân quân gần trăm người
phải dùng ngựa thồ hoặc vác súng trên vai đi phân phối cho các đơn vị chiến đấu
ở vùng xa hiểm trở. Tôi đi được hai chuyến, mất hơn năm tháng trời thì có lệnh
trở về đơn vị cũ, chờ. Tàu hỏa từ Kôn Minh có trục trặc gì đó, chưa sang biên
giới được. Tôi về buôn, định bụng gặp Xụ Phụn Phèn tặng cô cái khăn trùm tóc bằng
lụa Tô Châu tôi mua ở chợ Cốc Lếu. Tôi nôn nao, tưởng tượng lúc ôm Xụ Phụn Phèn
vào lòng. Gần nửa năm trời xa cách, nhớ lắm, và tôi biết Xụ Phụn Phèn cũng nhớ
tôi chẳng kém. Nhưng khi về gần đến thôn bản, linh tính báo cho tôi biết có
chuyện chẳng lành, và tôi không thể tin mắt mình khi trước mặt tôi, cả cái buôn
bị cháy rụi, không một căn nhà nào còn, không một dấu hiệu nào cho thấy bất cứ
một sinh linh nào còn sống, con người cũng như con vật. Tôi bàng hoàng đến tê
tái cả người. Chuyện gì xảy ra? Cả một buôn bản, gần ba trăm con người biến đi
đâu? Nhà cửa chỉ còn lại những đám tro than bắt đầu nguội lạnh. Tôi kinh hãi chạy
như điên dại trên đống tro tàn. Nhà Xụ Phụn Phèn, căn khang trang nhất buôn, cột
gỗ kê, đòn tay tre, ba gian, hai chái, mái chảy, nằm lấp lửng trên một triền đồi,
với hàng cây đào, mận sum suê đằng trước, cũng cháy nham nhở, sụp đổ tan tành,
không sao nhận ra được nữa.
    Tôi quá đỗi hoang mang như trong ác mộng.
Không một bóng người cho tôi hỏi thăm. Tất cả im lặng đến ghê người, chỉ có tiếng
u u từ cõi mịt mùng của núi rừng vọng đến cùng tiếng gió đánh vào cành lá kêu
xào xạc. Tôi chạy ra bờ suối nơi tôi và Xụ Phụn Phèn thường hẹn hò. Có lẽ mấy
hôm nay mưa to trên thượng nguồn nên bây giờ con suối là một cái thác nhỏ, nước
bắn tung tóe trên những tảng đá to tròn nằm hỗn độn hai bên bờ. Không có gì
khác lạ. Đứng nhìn con suối một lúc lâu, đầu óc trống rỗng, tôi thẫn thờ đi trở
lại buôn. “Phải tìm cho ra lẽ chuyện gì đã xảy ra nơi đây. Ai là thủ phạm gây
nên thảm cảnh này?” Tôi nhủ lòng như thế.
    Ý nghĩ đầu tiên đến với tôi lúc mới nhìn thấy
cảnh tượng không thể tin nổi này là Pháp đánh vào thôn bản và đốt sạch nhà cửa
vì dân chống cự. Nhưng sau giây phút đầu tiên bất ngờ choáng váng, suy nghĩ lại,
tôi thấy điều ấy không hợp lý. Không hề có một dấu hiệu nào cho thấy có giao
tranh xảy ra, không một thân cây nào có vết đạn, các lán vẫn nguyên vẹn, chỉ
nhà người H’Mông bị đốt cháy rụi. Những quan sát đó khiến tôi càng hoang mang.
Chẳng lẽ họ thiêu hủy toàn bộ thôn bản của mình để dời sang một vùng khác làm
nương rẫy mới? Không đời nào. Người H’Mông không phải dân du mục, họ làm rẫy,
và sống chết bám chặt lấy mảnh đất cũ kỹ của mình. Với những suy nghĩ ấy, tôi lấy
lương khô trong ba-lô ra ăn rồi tìm chỗ ngủ.
    Thực chất, người H’Mông không quan tâm lắm
đến cuộc chiến này. Họ xem đó là chuyện giữa người Kinh và người Pháp, phe nào
thắng, phe nào thua, cuộc sống họ không thay đổi. Tuy nhiên, họ không sống yên
vì bị lôi kéo vào chiến tranh một cách bất đắc dĩ. Việt Minh dùng núi rừng nơi
họ sinh sống làm an toàn khu, và mặc dù không muốn, họ đành chấp nhận vì không
có chọn lựa nào khác. Dĩ nhiên Việt Minh phủ dụ, lôi kéo họ về phe mình chống
Pháp, nhưng họ quen tự do xưa nay, họ có một số lề thói, tập tục riêng và cuộc
sống họ không bị câu thúc bởi bất cứ luật lệ, nguyên tắc chỉ đạo nào từ bên
ngoài. Bởi thế đã có không ít những mâu thuẫn bất mãn xảy ra.
    Lúc đó có lẽ tôi không nhận thức được điều
này, nhưng một cách mơ hồ, tôi linh cảm những gì tôi chứng kiến không do Pháp
gây ra.
    Hôm sau tôi mò sang buôn kế cận cách đó chừng
hai mươi cây số. Tại đây tôi gặp lại một anh trong đội dân quân du kích, và từ
anh ta, tôi biết sự thật. Một sự thật quá đau lòng. Anh dân quân có lẽ chỉ biết
đánh vần, thêm tật nói lắp, nhưng từ những điều anh ta kể, tôi có thể chắp nối
sự việc xảy ra như sau:
    Người trưởng đồn bị cắt đầu là em ruột một
ông Đại tá Pháp đang chỉ huy một lữ đoàn Nhảy Dù. Ông ta điên lên vì tức giận
khi hay tin em mình bị bêu đầu, ông ta yêu cầu cấp trên cho ông ta toàn quyền xử
lý vụ trừng phạt đơn vị Việt Minh đã gây nên “tội ác.” Sau khi nhận được chấp lệnh,
việc đầu tiên ông ta làm là dùng của cải đút lót các thôn bản quanh vùng để lấy
thông tin chỗ trú quân của tiểu đoàn ông Lê Lân. Một người trong thôn bản của Xụ
Phụn Phèn tham của hay bất mãn Việt Minh, ra mật khai hết tình hình của tiểu
đoàn, vị trí chỗ trú quân, quân số bộ đội, cho Pháp. Thế là nổ ra một cuộc hành
quân truy quét quy mô ba gọng kềm có xe bọc sắt và phi cơ yểm trợ đánh vào an
toàn khu. Bị đánh bất ngờ, nhưng nhờ đường dây báo động hữu hiệu và canh gác kỹ
lưỡng nên chỉ hơn hai mươi bộ đội bỏ xác lại, và khoảng ba chục người khác bị
thương, tiểu đoàn thoát hiểm kịp, trong đó có ông Lê Lân, mở đường máu chạy tuốt
về một an toàn khu khác ở Sơn La. Một tháng sau khi quân Pháp rút đi, sự việc
người trong thôn bản ra mật khai với Pháp bay đến tai ông Lê Lân. (Nội tuyến của
kháng chiến có mặt hầu như khắp mọi nơi). Thế là, đích thân ông Lê Lân – theo lời
anh Sơn, vốn là người ghét tay sai, chỉ điểm cho Pháp hơn cả Pháp – chỉ huy một
đại đội về thôn bản, nửa đêm lùa hết dân chúng ra bờ suối. Những người dân
H’Mông xưa nay chỉ biết làm nương rẫy, trong tay chỉ có vài cây rìu, vài con
dao, làm sao chống cự nổi súng đạn. Có lẽ cũng có vài anh thanh niên liều mình
đánh trả, nhưng cuối cùng tất cả già trẻ lớn bé bị lùa hết ra bờ suối. Đêm đó
trời mưa như trút nước, anh dân quân kể, con suối bình thường nước chảy lờ đờ,
đêm đó biến thành một dòng thác lũ, nước chảy cuồn cuộn. Sau khi bắt mọi người
đứng quay lưng nhìn xuống suối, một viên đạn vào sau ót, một cái đạp, xác người
đó lập tức biến mất trong làn nước hung hãn. Không phải từng người mà hàng chục
người mỗi lượt. Không phải ai cũng lãnh đạn, có kẻ bị bổ rìu vào đầu, óc phọt
ra. Trẻ em sơ sinh không bị bắn, cũng không bị rìu bổ, họ nắm cổ chân đứa bé quật
vào thân cây to, óc vỡ toang, và tiện đà ném bay cái xác nhỏ xíu xuống suối.
    Chỉ một loáng, gần ba trăm con người đã bị
xử tử như thế.
     “Cháu sợ quá, cậu ạ.” Anh dân quân gọi tôi
bằng cậu, xưng cháu, chứ không “đồng chí” nữa, mặc dù anh hơn tôi ít nhất cả chục
tuổi. Tôi nhìn thấy nét khiếp hãi trong cử chỉ, giọng nói run run, ánh mắt thất
thần của anh.
    “Rồi sao nữa?” Tôi hỏi anh.
    “Họ ra lệnh cho dân quân du kích chúng cháu
ở lại mấy hôm sau chờ tạnh mưa đốt hết nhà cửa trong thôn bản. Cả một cái thôn
bản không còn một mống.”
    Tôi thừ người nghe anh kể, tôi không biết
suy nghĩ gì nữa. Một sự thật ngoài mức tưởng tượng của tôi. Anh dân quân lại
nói tiếp:
    “Cháu không hiểu nổi, cậu ạ. Cháu cũng
không hiểu một điều nữa là khi bị xử tử, những người H’Mông này, họ không thốt
một lời kêu van, tất cả im lặng, cúi đầu chịu chết. Thành thử suốt buổi, cháu
không nghe một tiếng động nào ngoài tiếng súng độp độp, tiếng khóc như ri của
đám trẻ nít lẫn tiếng suối chảy và tiếng mưa. Lạ lùng lắm cơ… À, suýt tí nữa
thì cháu quên, lúc này đầu óc cháu mụ mẫm lắm, chả còn nhớ cái gì nữa.”
    Anh rút từ trong ba-lô ra một cái túi thổ cẩm
nhỏ bằng bàn tay đưa cho tôi.
    “Lúc cháu đang đốc suất dân thôn bản di
chuyển ra khỏi nhà, bỗng một cô gái chạy lại đưa cho cháu cái này, nhờ cháu đưa
lại cho cậu. Cô ấy nói tiếng Kinh mình sõi lắm và gọi đích danh cậu. Cháu bảo
cô ấy cứ an tâm, ‘Tôi hứa sẽ làm tròn lời cô dặn.’ Thế rồi cô ấy lầm lũi đi
theo đoàn người ra bờ suối.”
    Tôi cầm cái túi thổ cẩm nhỏ. Tôi biết vật
gì bên trong. Tôi cũng biết từ nay, nó là món vật duy nhất còn lại cho tôi liên
tưởng đến hình ảnh Xụ Phụn Phèn.
    “Đơn vị mình tan rã cả rồi, anh định làm gì
bây giờ?” Tôi hỏi anh dân quân.
    “Cháu định về lại nhà cháu ở Nghĩa Lộ, chứ
cháu sợ lắm…”
    “Anh phải báo cáo lên đơn vị rồi chờ quyết
định, nếu không, họ sẽ xử bắn anh về tội bỏ ngũ.”
    “Vâng, cháu biết... Nhưng cháu không sống ở
đây được nữa. Về Nghĩa Lộ cháu sẽ tìm đường trốn sang Lào, cậu ạ. Gia đình cháu
có mấy người trốn sang Lào từ trước kháng chiến. Sang đấy, may ra cháu tìm được
đất sống. Cháu bị bắt vào dân quân, chứ cháu nào có muốn cầm súng đánh giặc như
thế này.”
    Tôi chia tay anh dân quân, chúc anh may mắn.
Tôi không biết mình sẽ đi đâu, nhưng tôi phải ra khỏi vùng núi rừng này. Nó
kinh khiếp quá đỗi. Con suối trước kia xinh đẹp thơ mộng dường nào, bây giờ là
suối máu. Tôi  băng rừng, cứ nhắm bừa
phía trước mà đi, vừa đi vừa gọi tên Xụ Phụn Phèn. Ôi, cô gái H’Mông xinh đẹp!
Tình yêu của cô cho tôi, nó hoang dại như núi rừng này, nhưng nó say đắm và
tinh tuyền như tình yêu của loài muông thú. Nhờ nó, muông thú tìm đến nhau,
trái đất này còn tồn tại. Nó giữ cho trái đất khỏi nổ tung. Nhưng nó bị người
ta lấy mất của tôi, bởi người ta đang có một âm mưu kinh khiếp là toa rập nhau
phá vỡ trái đất ra thành nhiều mảnh vụn, không cách gì hàn gắn lại được.
 
TRỊNH
Y THƯ
(Trích
đoạn tiểu thuyết Đường Về Thủy Phủ).
 






































































Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Đánh giá dịch vụ nâng cao DR chất lượng, cam kết hiệu quả tại TPHCM

PHẦN III: CẢM NHẬN NHÂN ĐỌC KÝ ỨC CỦA LOÀI BÒ SÁT CỦA NHÀ VĂN TRỊNH Y THƯ

NHỮNG ĐOẠN TÌNH RỜI NGŨ NGÔN